Nhân vật võ thuật

Sunday, July 31, 2011

Những địa chỉ tập Vịnh Xuân ở Hà Nội

Tôn sư Diệp Vấn trong thế bàng thủ

Nhiều bạn đã yêu mến Vịnh Xuân Quyền nhưng còn chưa biết tập Vịnh Xuân ở đâu. Bởi thế, tác giả xin cung cấp một vài địa chỉ dạy Vịnh Xuân mà mình biết với mong muốn góp chút sức lực vào sự phát triển Vịnh Xuân Quyền ở Hà Nội. Sau đây là một vài địa chỉ
- Trường tiểu học Văn Chương, ngõ Văn Chương, đường Tôn Đức Thắng, do võ sư Nguyễn Nam Vinh, dòng cụ Ngô Sĩ Quý dạy
- Khu tập thể ô tô Hòa Bình, trong khu Triều Khúc, do võ sư Sáu, dòng cụ Ngô Sĩ Quý dạy. Võ Sư Sáu vốn dĩ trước đây học từ võ sư Nguyễn Nam Vinh
- Ký túc xá Mễ Trì, 182 Lương Thế Vinh. Lớp dạy này tác giả ko rõ là dòng cụ nào. Các bạn đi vào sân ký túc thì nhìn thấy ngay một cái quán phô tô, nhìn lên tầng hai có treo cái biển đề dạy thiếu lâm vịnh xuân. Ở đó có số điện thoại, các bạn liên lạc để biết thêm thông tin nhé.
- Trong sân tập của đại học sư phạm Hà Nội có lớp tập Vịnh Xuân nội gia của em trai võ sư Nguyễn Ngọc Nội dạy
- Trường tiểu học Đại Kim, đường Kim Giang có lớp tập của võ sư Nguyễn Mạnh Nhâm
- Trung tâm thể thao Quần Ngựa có lớp tập của võ sư Đoàn Thụy Anh
- Số 1 Tăng Bạt Hổ cũng có 1 lớp tập
- Câu lạc bộ Vĩnh Xuân Thăng Long có một hệ thống sân tập các bạn lên google tìm tên như trên là ra.
Trên đây là một số lớp tập mà tác giả biết. Cũng xin lưu ý với các bạn là ở đây tác giả không viết rõ lịch tập với lý do muốn các bạn thể hiện sự kiên trì của mình. Nếu bạn thực sự yêu thích Vịnh Xuân thì bạn sẽ không tiếc một hai buổi đến chầu trực để hỏi thông tin phải không nào. Chúc các bạn sẽ tìm được lớp tập thuận lợi với nơi ở của mình nhé.

Wednesday, July 20, 2011

Tiểu sử tôn sư Diệp Vấn




Diệp Vấn thuộc một gia đình thế phiệt tại Quảng Đông nên được gửi ra Hong kong theo học tại trường Cao Đẳng St.Stephan. Vốn tính hiếu động lại đang ở độ tuổi thiếu niên sôi nổi, Diệp Vấn đã nhiều phen lao vào những cuộc thử thách sức lực với các bạn học người Âu có thể vóc cao lớn hơn. Dù vậy, Diệp Vấn chưa hề thất bại. Nhờ đó, Diệp Vấn trở thành một thiếu niên có tên tuổi.

Một hôm, người bạn học họ Lê tìm Diệp Vấn cho biết có một ông già trạc ngoài 50 tuổi rất muốn lãnh giáo võ công của Diệp Vấn. Diệp Vấn theo bạn tới gặp ông già nọ và được nghe giới thiệu là ông Lương, làm công tại một cửa hàng tơ lụa. Ông già tỏ ý không tin tài năng của Diệp Vấn khiến cậu tức giận yêu cầu ông đấu thử. Diệp vấn giở hết tuyệt kỹ tấn công nhưng chỉ trong một thoáng ngắn ngủi đã bị ông già quăng té dài ba lần trên mặt đất. Thất bại khiến Diệp Vấn nhục nhã xấu hổ. Nhưng người bạn họ Lê lại tìm đến nói là ông già Lương rất muốn gặp lại Diệp Vấn. Lần gặp gỡ này, Diệp Vấn mới được biết ông già nọ là sư thúc của mình, vì ông chính là Lương Bích, con trai cả của Vịnh Xuân Quyền Vương Lương Tán và là sư đệ của Trần Hoa Thuận.

Lương Bích nhận xét Diệp Vấn có các điều kiện tiên thiên rất cao và tận tình truyền thụ mọi bí quyết của môn phái. Năm 24 tuổi, Diệp Vấn thật sự trở thành một cao thủ, nhưng chưa quên bài học đầu tiên của vị sư thúc nên tiếp tục tìm học. Diệp Vấn trở về quê hương của môn phái là vùng Phật Sơn, Quảng Đông vừa khổ luyệt vừa nghiên cứu tham bác cùng nhiều người khác. Cuối cùng, đúng như dự đoán của Trần Hoa Thuận, Diệp Vấn đã bước vào hóa cảnh của người học võ và trở thành Chưởng Môn của môn phái. Ông trở lại Hong kong và mở võ đường truyền thụ bí quyết Vịnh Xuân khi đã 56 tuổi. Sau khi ông mất, người tiếp nối ông trong vai trò Chưởng Môn là Tiến sĩ Lương Đĩnh, một đệ tử chân truyền của Diệp Vấn. Tuy nhiên, theo dư luận thì người học trò đắc ý một thời của Chưởng môn Diệp Vấn chính là Lý Tiểu Long, một môn đệ cũng vừa 13 tuổi khi được ông thâu nhận.

Tuesday, July 19, 2011

ai là đệ nhất cao thủ của võ Việt Nam

Ai là thiên hạ đệ nhất cao thủ võ Việt? “Đó người cả đời cống hiến, hi sinh cho võ thuật và hết mình với nền võ học nước nhà” - lời Huyền Đạo Công Trần Công.

Huyền Công Đạo Trần Công khí công cự phách, ám khí kinh hồn; Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm ảnh xuất quỷ nhập thần, nghiệp võ huy hoàng vài thập kỉ; lão võ sư Trần Tiến, Hà Châu tuổi đã xấp xỉ bách niên nhưng quyền thuật thì vẫn mạnh như mãnh thú, gần xa nô nức khen tài... Kế đến, “lớp trẻ” như võ sư Chu Há, Băng Sơn, Vũ Quang Tín, Văn Thắng... cũng tài danh lừng lẫy, gây dựng nghiệp võ khiến người người thán phục, ngợi ca.



Vậy, trong số những “ngôi sao sáng chói” ấy, ai là thiên hạ đệ nhất?

Hùng kê đệ nhất?

Ông Trương Quang Trung, Phó Chủ tịch Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, nguyên là Vụ trưởng Vụ Thể dục Thể thao quần chúng (đồng thời là Tổng Thư ký đầu tiên của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, từ năm 1991 tới năm 2007), đã được sống, được gắn bó với nhiều võ sư tên tuổi của làng võ Việt Nam.

Đặc biệt hơn, ông chính là người đã tiến hành biên soạn, xuất bản cuốn sách "Đời người - Nghiệp võ", được tạm gọi là phác thảo đầu tiên về “khuôn mặt” những cao thủ của võ lâm Việt Nam suốt từ Nam chí Bắc.

Trong cuốn sách ấy, ông đã giới thiệu 23 võ sư, họ đều là những người nổi tiếng, có đóng góp tích cực cho phong trào võ thuật nước nhà. Tuy thế, khi hỏi ông về nhân vật số một trong làng võ đương đại, quan điểm cá nhân, ông đã không ngần ngại mà trả lời, người ấy là lão võ sư Ngô Bông, truyền nhân của bài võ Hùng kê quyền, hiện đang sinh sống ở Quảng Ngãi.

Theo ông Trung, lão võ sư Ngô Bông là người vô cùng say mê với võ thuật. Bất cứ nơi nào có “chuyện võ” là nơi ấy có sự “góp vui” của lão võ sư ấy.

Lão võ sư Ngô Bông sinh năm 1923, trong một gia đình nghèo ở Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Cha bị giặc Pháp sát hại, mẹ mất sớm nên ông phải về ở với nhà ngoại của mình. Tại đó, ông đã được hai cậu ruột của mình là Lê Chót và Lê Thuỳ dạy võ Tây Sơn. Trong số những bài võ ấy có Hùng kê quyền, tương truyền do Nguyễn Lữ sáng tác từ các thế đánh của gà chọi.

Tiếp đến, khi đã thành một thanh niên vạm vỡ, ông đã theo học Thiếu lâm với hai người thầy nổi tiếng ở Quảng Ngãi là Bảo Truy Phong (Gấu già) và Lâm Võ. Và cũng như nhiều võ sinh lúc bấy giờ, võ sư Ngô Bông cũng đã nhiều lần thượng đài thi đấu quyền Anh và võ tự do. Ông đã từng thắng nhiều võ sĩ tên tuổi lúc bấy giờ như Đinh Hổ (võ sĩ Campuchia), Đinh Đam (võ sĩ người Huế), Trực Hùng, Trực Ninh...

Với những đóng góp của mình cho phong trào võ thuật, khi Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam được thành lập, ông được mời làm cố vấn. Năm 1993, trong một hội thảo chuyên môn, bài Hùng kê quyền do ông là truyền nhân đã được bình chọn là một trong những bài võ thống nhất (nằm trong thể thức thi đấu) của Liên đoàn. Đặc biệt hơn, năm 2004, khi đã ngoài 80 tuổi, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, trước 70 môn phái Võ thuật nổi tiếng của khắp các quốc gia, với bài Hùng kê quyền do chính lão võ sư Ngô Bông thể hiện đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của tất thảy mọi người.

Mãnh sư Trần Tiến ở ngôi đầu?

Võ sư Phan Dương Bình (Bình “bún”) lại có “quan điểm” khác. Luận bàn về chủ đề này, quan điểm cá nhân, võ sư Phan Dương Bình “đề cử” ngay rằng trong số những võ sư đương đại, ông thấy lão võ sư Trần Tiến xứng đáng được ngồi vào “ghế” đầu tiên.

Võ sư Phan Dương Bình kể, ông vừa mới đi Nam về. Chuyến đi ấy, vào Thành phố Hồ Chí Minh, ông và lão võ sư Trần Tiến đã có nhiều thời gian để trao đổi với nhau những điều tâm huyết về võ thuật. Điều ông thấy mừng là dù tuổi đã xấp xỉ bách niên nhưng lão võ sư Trần Tiến vẫn vô cùng rắn rỏi, minh mẫn. Điều ấy là minh chứng rõ ràng nhất cho sự uyên thâm của lão võ sư trên “con đường” võ học của mình.

Lão võ sư Trần Tiến sinh năm 1911, trong một gia đình có truyền thống võ học ở Bắc Giang. Ông nội ông là cụ Hoàng Hảo, bố là Hoàng Tân, cùng chi họ và từng tham gia nghĩa quân của hùm xám Yên Thế Hoàng Hoa Thám.

Khi nghĩa quân tan rã, để tránh sự truy sát của quân giặc, gia đình ông đã phải dạt về Đồ Sơn, Hải Phòng và đổi sang họ Trần. Ông được ông nội và cha mình truyền dạy võ công từ khi còn nhỏ. Năm 15 tuổi, cơ duyên, ông đã được lãnh hội võ công của một nhà sư người Trung Quốc sang Việt Nam lánh nạn, tên là Lý Giang Nam, quê ở Phúc Kiến, thuộc phái Thiếu Lâm.

5 năm sau đó, ông tiếp tục thụ giáo Nhu thuật và Judo của 2 võ sĩ người Nhật tên là Tanabe và Karachi. Với tinh thần ham học hỏi, ông còn tập cả quyền Anh do võ sĩ người Pháp Lafeur chỉ dạy.

Khi mới ngoài 20 tuổi, võ sư Trần Tiến đã danh nổi như cồn khi giành ngôi vô địch kiếm thuật ở Bắc Kỳ. Bởi bị giặc Pháp săn đuổi vì lý do “kích động kẻ xấu luyện võ gây mất an ninh trật tự” nên cuối năm 1936, võ sư Trần Tiến phải khăn gói vào Nam. Quãng thời gian này, bởi mưu sinh và cũng bởi sự sốc nổi của tuổi trẻ nên võ sư Trần Tiến đã rất nhiều lần thượng đài ở khắp các nước Đông Nam Á với nhiều đối thủ khác nhau và đều giành về mình phần thắng.

Theo võ sư Trần Tiến thì trận thượng đài cuối cùng của ông diễn ra trên đất Singapore. Sau khi loại hàng loạt các đấu thủ, trận “chung kết” ông gặp một đối thủ là võ sĩ người bản địa có biệt hiệu là Tiểu Lâm Xung.

Tiểu Lâm Xung là võ sĩ có thân hình cao lớn, rắn chắc. Trước đó, nhiều trận đấu, Tiểu Lâm Xung để đối thủ thoải mái tung quyền, cước vào người mà chẳng hề hấn gì. Khi đã thấm mệt, chỉ một đòn là Tiểu Lâm Xung hạ nốc ao đối thủ. Trước trận đấu căng thẳng ấy, trong lần tổ chức họp báo, Tiểu Lâm Xung đã thề sẽ đánh gục võ sĩ người Việt để “rửa hận” cho những “chiến hữu” đã bị ông triệt hạ. Thời gian ấy, võ sư Trần Tiến đang là nhân vật để một hãng giày nổi tiếng thực hiện quảng bá hình ảnh. Bởi thế, sự quan tâm của công chúng tới trận đấu “sinh tử” của ông là cơ hội tuyệt vời để hãng giày đó khuếch trương thương hiệu của mình. Do vậy, trước trận đấu, ông đã nhận được “tối hậu thư” của “đơn vị tài trợ”, buộc ông phải thắng.

Lên đài, với “bàn tay sắt” của mình, như để thị uy, doạ nạt đối phương, Tiểu Lâm Xung đã tung những cú đấm sấm sét của mình vào những tấm gỗ dày đến 5 cm khiến chúng vỡ tan. Trước đòn phủ đầu ấy, ông vẫn không hề nao núng. Cậy sức, Tiểu Lâm Xung ra đòn tới tấp, nhưng với thân thủ nhanh nhẹn, võ sư Trần Tiến đã khéo léo tránh, né, đỡ đòn. Già nửa thời gian của trận đấu trôi qua, tuy chưa bị dính đòn nào nhưng phần thắng đã có vẻ nghiêng hẳn về võ sĩ người bản địa vì lợi thế tấn công nhiều hơn. Trong lúc say máu tấn công, Tiểu Lâm Xung đã bộc lộ nhiều sơ hở. Và, trong một tích tắc “ham công bỏ thủ” ấy, võ sư Trần Tiến đã nhanh chóng áp sát. Hạ thấp tấn, bằng một thế xà quyền, ông đã đánh thốc vào hạ bộ đối phương. Chỉ một đòn ấy, Tiểu Lâm Xung đã đổ đánh huỵch xuống sàn, không tài nào gượng dậy được. Vậy là, phần thắng đã thuộc về võ sư người Việt.

Thế nhưng, trong phút giây vinh quang ấy, thấy Tiểu Lâm Xung nằm bất động trên sàn, ông bỗng thấy ăn năn, day dứt. Thật ra, đòn ấy, với võ đài thi đấu kiểu tự do như trên thì chẳng có gì là sai luật, nay với tinh thần võ đạo, cú đánh ấy lại là cấm kỵ bởi tính sát thủ kinh hồn. Vậy nên ông tự nhận mình là người thua cuộc. Sau trận đấu ấy, ông đã tránh xa “kiếp sống võ đài”.

Năm 1945, ra Hà Nội, được Việt Minh giác ngộ, lão võ sư Trần Tiến tham gia cách mạng. Vào quân ngũ, với khả năng quyền thuật siêu phàm của mình, ông đã được tổ chức phân công huấn luyện bộ đội tinh nhuệ (lực lượng đặc công sau này).

Năm 1978, ông rời quân ngũ nhưng vẫn tự nguyện tham gia dạy võ thuật cho một số sĩ quan quân đội Campuchia suốt hơn chục năm trời. “Về hưu” nhưng với nghiệp võ thì ông vẫn miệt mài theo đuổi.

Chắt lọc, đúc kết những tinh hoa võ học mà mình cả đời tích luỹ, lão võ sư Trần Tiến đã sáng lập võ phái Thiếu lâm nội gia võ thuật đạo Việt Nam. Đến giờ, võ phái của ông đã thu hút cả ngàn môn sinh. Trong số ấy, có rất nhiều môn sinh người Âu, Mỹ, Phi... bởi nghe danh mà lặn lội tìm về theo học. Với một sự nghiệp huy hoàng như trên, theo võ sư Phan Dương Bình, trong số những võ sư Việt Nam hiện đang còn sống và tham gia hoạt động võ thuật, lão võ sư Trần Tiến xứng đáng được xếp ở ngôi đầu.

Nhất Công nhì Ảnh?

Lão võ sư Trần Hưng Quang (Quang “ốc”, Chưởng môn phái Bình Định Gia) là người vô cùng nghiêm túc trên con đường võ đạo đồng thời rất khắt khe với những nhận xét của mình. Tuy vậy, khi hỏi người đầu tiên mà ông nghĩ tới khi “lập bảng phong thần” thì ông đã trả lời ngay, người ấy là Huyền Công Đạo Trần Công, Chưởng môn phái Không Động.

Theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì Huyền Công Đạo là người có đóng góp rất lớn cho võ thuật cổ truyền, đặc biệt là làng võ thủ đô Hà Nội. Huyền Công Đạo được biết tới như một người có nội công, khí công siêu phàm đồng thời là “cha đẻ” của rất nhiều binh khí đặc dị. Trong số ấy, độc môn ám khí của lão võ sư đã danh trấn giang hồ, không ai bì kịp. Làng võ Việt Nam, rất nhiều những võ sư nổi tiếng đều đã tìm đến lão võ sư để nhờ người chỉ giáo.

Nhận xét trên của lão võ sư Trần Hưng Quang cũng trùng với ý kiến của nhiều người. Bắc Phong Chân nhân Băng Sơn, Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia cũng đồng quan điểm ấy. Có một giai thoại do võ sư Băng Sơn kể lại, năm 1991, khi Đại hội võ thuật toàn quốc được tổ chức tại Hà Nội, một số võ sư đã tiến hành “bình bầu” xem ai là đệ nhất cao thủ võ Việt. Và theo như kết quả của cuộc “bầu chọn” ấy, lão võ sư Trần Công đã ở ngôi đầu, kế đến là Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh.

Khi chúng tôi gặp để xác minh thông tin này, thì viện lý do tuổi cao, lão võ sư Trần Công bảo ông không còn nhớ gì đến chi tiết này nữa. Và, nếu điều này thực sự... đã diễn ra thì ông cám ơn mọi người đã tỏ lòng mến mộ.

Còn với riêng Huyền Công Đạo, vị võ sư mà ông nể phục phải là người vẹn đức vẹn tài. Theo đại sư Trần Công, võ lâm Việt Nam đương đại, người ấy chính là hai lão võ sư Trần Tiến và Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh. Theo Huyền Công Đạo, tuy chỉ gặp gỡ một vài lần hiếm hoi nhưng tính cách, khả năng chuyên môn của hai đồng đạo trên đã khiến ông cảm phục. Giống như lão võ sư Trần Công, võ sư Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo cũng vô cùng hâm mộ nghiệp võ của hai lão võ sư trên, đặc biệt là với quyền sư Đoàn Tâm Ảnh. Theo võ sư Văn Thắng thì danh tiếng, khả năng siêu phàm của lão võ sư giờ đã 107 tuổi ấy (Đoàn Tâm Ảnh) không chỉ người trong nước biết tới mà nhiều môn sinh của các môn phái khác trên thế giới đều xuýt xoa, nể phục khi nhắc tới tên. Đoàn Tâm Ảnh chính là một huyền thoại của làng võ Việt Nam.

Những “người kế thừa vĩ đại”

Võ thuật có tính kế thừa và phát triển. Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, khi phong trào võ thuật được khôi phục, trên bầu trời vốn đã nhiều tinh tú ấy lại xuất hiện thêm những ngôi sao sáng chói. Những “ngôi sao” ấy không những kế thừa tinh thần thượng võ - “vốn liếng”, tinh hoa của thế hệ đi trước, mà còn đưa nền võ thuật nước nhà phát dương quang đại.

Võ sư Chu Há thuộc tuýp người khiêm tốn, rất ít khi đưa ra nhận xét về người khác. Tuy thế, khi đề cập đến vấn đề này, quan điểm cá nhân, với “thế hệ kế thừa” hiện nay, ông đã “tiến cử” hai võ sư, một của môn phái Vịnh Xuân, một của môn phái Võ lâm Phật gia.

Môn đồ của Vịnh Xuân, theo võ sư Chu Há, là võ sư Trịnh Quốc định, đệ tử của cố võ sư Trần Văn Phùng (một trong 5 học trò ưu tú nhất của võ sư Tế Công). Hiện tại, võ sư Định đang dạy Vịnh Xuân ở làng Ngọc Hà (Hà Nội).

Người thuộc môn phái Võ lâm Phật gia không ai khác là võ sư chưởng môn Băng Sơn (Bắc Phong Chân nhân). Theo võ sư Chu Há, những năm gần đây, môn phái của võ sư Băng Sơn đã “gặt hái” được nhiều thành công rực rỡ, thể hiện qua những tấm huy chương từ các lần “võ lâm đại hội”...

Võ học thâm như Đông Hải...

“Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị”, đó là quan điểm của ông Trương Quang Trung, Phó Chủ tịch Liên đoàn võ thuật cổ truyền và cũng là quan điểm chung của tất cả các võ sư khi nói về anh tài làng võ. Bởi thế, rất khó có thể tìm ra trong số rất nhiều những ngôi sao sáng trên bầu trời võ thuật Việt Nam, ngôi sao nào sáng nhất.

Điều này, càng được khẳng định qua câu nói của sáng tổ Trương Tam Phong, Chưởng môn phái Võ Đang, một võ phái nổi tiếng ở Trung Quốc. Câu nói này đã được lão võ sư Nguyễn Tỵ, Chưởng môn phái Nam Hồng Sơn, một môn phái đang thu hút rất đông đệ tử hiện nay ghi nắn nót ngay trên... tường nhà mình: “Võ học thâm như Đông Hải - Siêu quần võ sĩ đa thi sa số hằng hà”. Nghĩa câu nói ấy, theo lão võ sư Nguyễn Tỵ thì võ học thâm sâu chẳng khác gì bể đông, anh tài thì đông đảo chẳng khác gì sao ở trên trời. Bởi thế, trong võ luôn có đạo, người học võ phải biết giữ lấy cái đạo của mình. Trong đạo ấy, thì điều đầu tiên là phải xóa bỏ cái tôi, không tự kiêu, tự phụ, coi thường người khác. Mình tài nhưng bể học bao la, ra ngoài xã hội chắc chắn có người tài giỏi hơn. Bởi thế, theo lão võ sư, viết câu đó lên tường, ngày ngày nhìn thấy thì mọi nơi, mọi lúc ông đều tự điều chỉnh tất cả những hành vi của bản thân mình.

Võ sư Văn Thắng có một kỷ niệm mà đến giờ, ông vẫn chẳng giây phút nào quên. Kỷ niệm ấy đã nhắc nhở ông rằng, trong thiên hạ, người tài là vô số kể. Cách đây cỡ độ chục năm, bởi chưa xây dựng được võ đường qui mô như bây giờ, ông phải dạy môn đồ của mình ở một sân chùa gần nhà. Tối nào cũng vậy, hễ khi những tiếng “hây ha” của buổi tập bắt đầu thì lại có một ông già không biết từ đâu ra khoảng sân ấy thảnh thơi hóng mát.

Một buổi, ngồi nhìn ông đi một bài quyền làm mẫu cho học trò, ông già kỳ lạ ấy đã đến bên nhẹ nhàng... góp ý. Theo ông lão thì võ sư Văn Thắng đi quyền quá chính xác, nhưng về cuối bài quyền, động tác cần mạnh và dứt khoát hơn, có vậy mới lộ rõ uy lực. Đó là những lời hoàn toàn chính xác.

Biết ông lão cũng chẳng phải “người thường”, võ sư Văn Thắng đã mời ông chỉ giáo thêm. Ngay tối đó, trước rất đông môn sinh của Thăng Long võ đạo, ông già kỳ lạ ấy đã đi liên tiếp mấy bài quyền, côn khiến mọi người được một phen... mở mắt. Biểu diễn xong, ông lịch sự cúi chào mọi người rồi vội vã rút lui, không để lại danh tính dù võ sư Văn Thắng đã nằng nặc hỏi. Các tối sau, dù đã cố tình chờ đợi, nhưng chẳng biết bởi lí do gì, ông lão ấy đã không trở lại thêm một lần nào nữa.

Ai là thiên hạ đệ nhất cao thủ võ Việt? “Đó người cả đời cống hiến, hi sinh cho võ thuật và hết mình với nền võ học nước nhà” (lời võ sư Trần Công). Từ quan điểm này, thì bất cứ người nào đam mê nghiệp võ, giương cao tinh thần võ đạo và xả thân vì nền võ học nước nhà thì đều xứng đáng được tôn vinh là những đệ nhất anh tài trong rừng võ Việt Nam

(theo giadinh.net)

Friday, July 15, 2011

Lịch sử môn phái Vịnh Xuân Quyền

Tổ sư của môn Vịnh Xuân là cô Nghiêm Vịnh Xuân, vốn người Quảng Đông, Trung Quốc. Khi còn trẻ cô rất thông minh, khỏe mạnh, có tư cách và nhân ái. Cô đã đính hôn với Lương Bác Trù, một nhà buôn muối ở Phúc Kiến. Ít lâu sau, mẹ của Nghiêm Vịnh Xuân qua đời. Cha cô, ông Nghiêm Nhị - bị buộc tội một cách phi lý và suýt đi tù. Đến nỗi cả gia đình ông phải dời đi nơi khác và cuối cùng dựng nhà sinh sống dưới chân núi Đại Lương ở biên giới hai tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên. Tại đó, họ kiếm sống tương đối ổn định. Tất cả chuyện này đã xảy ra trong thời gian của vua Khang Hy đang trị vì, tức từ năm 1662 đến 1722.


Vào lúc đó môn Kung Fu đang phát triển rất mạnh mẽ ở chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn thuộc tỉnh Hà Nam. Điều này làm cho triều đình Mãn Thanh lo sợ đến nỗi phải đưa quân đến tấn công ngôi chùa. Họ đã không thành công. Một gã đàn ông tên là Trần Văn Hoa - đỗ đầu trong kỳ thi làm quan năm đó - đã đứng về phía triều đình và hoạch định một chương trình.

Hắn lập mưu với nhà sư Thiếu Lâm tên là Ma Ning Yee và nhiều người khác. Những kẻ phản bội này làm nội ứng đốt chùa Thiếu Lâm trong khi quân triều đình tấn công bên ngoài. Chùa Thiếu Lâm cháy rụi và các nhà sư thì phân tán mọi nơi. Ngũ Mai sư thái, Chí Thiện thiền sư, Bạch Mi đạo nhân, Phùng Đạo Đức và Miêu Hiển đã thoát ra được và phân tán mỗi người mỗi ngã.

Ngũ Mai đã đến trú ẩn trong chùa Bạch Hạc trên núi Đại Lương. Tại đó Ngũ Mai đã quen biết Nghiêm Nhị cùng con gái của ông ta là Nghiêm Vịnh Xuân, bởi bà thường đến mua đậu hủ ở cửa hiệu của cha con họ Nghiêm. Chẳng bao lâu, họ trở thành hàng xóm thân mật.

Vịnh Xuân là một thiếu nữ trẻ và sắc đẹp của tuổi 16 đã làm mê mẩn một tên vô lại ở địa phương. Hắn dùng áp lực buộc Vịnh Xuân phải ưng hắn. Cha con Vịnh Xuân lo lắng vô cùng. Ngũ Mai biết được việc này và thương hại cho Vịnh Xuân. Bà đồng ý dạy Vịnh Xuân những kỹ thuật chiến đấu sao cho cô ta có khả năng tự bảo vệ được chính bản thân mình, giữ vững trung trinh với Lương Bác Trù.

Từ đó Vịnh Xuân đã theo Ngũ Mai lên núi và bắt đầu học Kung Fu. Cô đã miệt mài luyện tập ngày đêm và tinh thông mọi kỹ thuật. Rồi việc phải đến đã đến, Vịnh Xuân đã thách đấu với tên vô lại và đánh bại hắn! Ngũ Mai bắt đầu cuộc chu du hành đạo trên khắp đất nước. Nhưng trước khi đi, bà đã dặn dò Vịnh Xuân phải hết sức quý trọng những truyền thống Kung Fu, từ đó phát triển sở học Kung Fu của mình sau cuộc hôn nhân, và hỗ trợ mọi người trong cuộc bài Mãn phục Minh.

Sau cuộc hôn nhân, Vịnh Xuân đã truyền sở học võ thuật của mình lại cho chồng là Lương Bác Trù. Họ Lương tiếp tục truyền lại cho Lương Lan Quế, từ đó lại truyền cho Hoàng Hoa Bảo - một thành viên của đoàn ca kịch lưu động trên sông mang tên là Thuyền Đỏ. Trưởng đoàn Thuyền Đỏ là Lương Nhị Tì đã từng được Chí Thiện thiền sư, sau khi thoát khỏi chùa Thiếu Lâm cải trang thành một người nấu bếp và làm việc cho đoàn Thuyền Đỏ, truyền dạy cho kỹ thuật Lục Điểm Bán Côn.

Hoàng Hoa Bảo thân cận với Lương Nhị Tì, và họ cùng trao đổi những gì mà họ biết về Kung Fu. Họ đã cùng nhau tạo ra mối tương quan và cải tiến những kỹ thuật kung fu của họ, và nhờ vậy mà kỹ thuật Lục Điểm Bán Côn đã có mặt trong Vịnh Xuân quyền.

Lương Nhị Tì truyền dạy cho Lương Tán, một y sĩ dược thảo nổi tiếng ở Phật Sơn. Lương Tán thông hiểu được những bí mật ẩn tàng của Vịnh Xuân và đã đạt tới mức nghệ thuật cao. Nhiều võ sư kung fu đến thách đấu với ông ta, nhưng tất cả đều bị đánh bại. Sau đó, ông truyền võ học lại cho Trần Hoa Thuận, người đã nhận tôi (Diệp Vấn 1893-1972) làm đệ tử cách nay nhiều thập kỷ. Tôi đã học kung fu bên cạnh các bậc đàn anh như: Ngô Tiểu Lỗ, Ngô Trọng Tố, Trấn Nhữ Miên, và Lôi Nhữ Tế.

Chúng tôi mãi mãi biết ơn tổ tiên và các bậc thầy kung fu của mình, sẽ luôn nhớ và cảm kích về cội nguồn. Những đồng cảm này sẽ luôn luôn giữ anh em kung fu chúng tôi luôn gần gũi với nhau. Đây là lý do tại sao tôi đang tổ chức " Vịnh Xuân ái hữu" và tôi hy vọng anh em kung fu sẽ ủng hộ tôi vì sự việc này rất quan trọng trong việc quảng bá Vịnh Xuân ngày càng sâu rộng hơn.

(Theo Nguyễn Võ - Lược dịch từ bài viết của Diệp Vấn trong "Genealogy of Ving Tsun Family")